Hà Nam - xưa và nay
Ngày 20/10/1890, tỉnh Hà Nam chính thức được thành lập. Đất đai tỉnh Hà Nam gồm đất phủ Liêm Bình, 17 xã của huyện Vụ Bản, Thượng Nguyên (thuộc tỉnh Nam Định), 2 tổng Mộc Hoàn, Chuyên Nghiệp thuộc huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Nội (cho nhập vào huyện Duy Tiên) và 2 huyện cũ là Duy Tiên, Kim Bảng của phủ Lý Nhân.
Từ khi thành lập đến nay, trải qua 118 năm, địa danh và địa giới hành chính của tỉnh đã có nhiều thay đổi. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tỉnh thuộc liên khu III. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chỉ đạo kháng chiến của hai tỉnh Nam Định và Hà Nam, tháng 5/1953, Trung ương quyết định cắt các huyện phía Bắc tỉnh Nam Định gồm Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và 7 xã phía Bắc Nghĩa Hưng nhập vào tỉnh Hà Nam; chuyển châu Lạc Thuỷ về tỉnh Hoà Bình. Tháng 4/1956, sau giảm tô và cải cách ruộng đất, 3 huyện Ý Yên, Vụ Bản, Mỹ Lộc và 7 xã của Nghĩa Hưng sát nhập trở lại tỉnh Nam Định. Năm 1956, tỉnh Hà Nam và Nam Định sát nhập thành tỉnh Nam Hà. Đầu năm 1976, Nam Hà sáp nhập với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1992, tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình lại chia tách như cũ. Ngày 1/1/1997, tỉnh Hà Nam được tái lập, gồm các huyện Thanh Liêm, Bình Lục, Lý Nhân, Duy Tiên, Kim Bảng và thị xã Phủ Lý.
Tên tỉnh Hà Nam tuy mới có 118 năm, song vùng đất này từ rất sớm đã có những đặc thù, đặc điểm riêng. Với bốn mặt đều có sông bao bọc, dòng sông Đáy chia địa hình Hà Nam làm hai vùng rõ rệt: vùng đồng chiêm trũng và dải đá trầm tích ở phía Tây. Ở vùng đồng bằng có nhiều đồi núi với cảnh quan đẹp: Núi Đọi, núi Điệp ở Duy Tiên; núi An Lão (Nguyệt Hằng Sơn) ở Bình Lục; núi Non, núi Chanh Chè ở Thanh Liêm… Trung tâm tỉnh là nơi hội tụ của 3 con sông: sông Đáy, sông Châu, sông Nhuệ (ngã ba sông). Ở trong dãy núi đá vôi phía Tây có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp đã đi vào thơ ca: Ngũ động sơn, hang Luồn - ao Dong, đầm Ngũ Nhạc, núi Ngọc, Bát cảnh tiên, dốc Cổng Trời, động Phúc Long, Kẽm Trống, hang Gióng Lở…Trải qua chiều dài lịch sử, cố nhân đã để lại cho Hà Nam nhiều di sản văn hoá vật thể vô cùng quý giá: Trống đồng Ngọc Lũ - dấu ấn thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nền văn hoá Đông Sơn; cuốn sách đồng Bắc Lý - một trong 4 cuốn sách còn nguyên vẹn nhất, nội dung phong phú nhất của cả nước, tấm bia “Sùng Thiện Diên Linh”, tấm bia “Đại Trị”… Hà Nam có 1.784 di tích trong đó có 65 di tích xếp hạng cấp quốc gia, 39 di tích xếp hạng cấp tỉnh.
Bên cạnh những giá trị văn hoá vật thể, Hà Nam cũng là quê hương của những làng nghề thủ công truyền thống với các làng nghề nổi tiếng như: lụa Nha Xá; mây tre đan Ngọc Động; sừng Mỹ nghệ Đô Hai; thêu ren An Hoà, Hoà Ngãi; rũa cưa Đại Phu - An Đổ; mộc Cao Đà; gốm Đanh Xá, Quyết Thành; trống Đọi Tam…Hà Nam cũng là quê hương của nhiều lễ hội truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc. Toàn tỉnh có 100 lễ hội, trong đó có 5 lễ hội vùng được tổ chức quy mô của lễ hội truyền thống. Các nghi thức tế lễ, rước, trò chơi dân gian, sinh hoạt nghệ thuật dân gian được tổ chức long trọng, sinh động, tăng cường tính cộng đồng, cộng cảm của làng xã như: Lễ hội đền Trần Thương; Lễ hội chùa Đọi; Lễ hội đền Trúc - Ngũ Động Sơn; Lễ hội vật võ Liễu Đôi…
Hà Nam là một trong những cái nôi của nền nghệ thuật truyền thống đang được kế thừa và phát huy như: chiếu chèo làng Ngò, chiếu chèo làng Hoà Ngãi, chiếu chèo làng Thọ Chương (huyện Lý Nhân); chiếu chèo Đồng Hoá (huyện Kim Bảng); chiếu chèo Châu Giang (huyện Duy Tiên); hát tuồng Bạch Thượng (Duy Tiên), An Thái (Bình Lục). Bên cạnh đó Hà Nam còn có vốn dân ca mang đậm những nét riêng như: múa hát dậm Quyển Sơn, Kim Bảng; múa hát Lải Lèn, Lý Nhân; dân ca giao duyên vùng ngã ba sông Móng…
Là vùng đất có bề dầy truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, Hà nam tự hào có Thập đạo tướng quân Lê Hoàn đã có công dẹp loạn 12 sứ quân, xây dựng cơ đồ nhà Đinh, đập tan quân Tống lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là vua Lê Đại Hành. Cuộc đời của ông luôn gắn liền với mảnh đất Liêm Cần, nơi đặt chỉ huy quân đội, nơi luyện quân. Trần Bình Trọng, người con của quê hương Bảo Thái (nay là xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm) mãi lưu danh trong sử sách với câu nói nổi tiếng: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vưong đất Bắc”. Ông bị giặc giết lúc 26 tuổi, được truy phong Bảo nghĩa vương. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh, Hà Nam là một trong những căn cứ quan trọng của nghĩa quân Lam Sơn, tiêu biểu là Tướng quân Vũ Cố (Thanh Thuỷ, Thanh Liêm) đã cùng với Lê Lợi xây dựng căn cứ Đồng Ao đánh giặc… Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phát huy truyền thống đánh giặc của ông cha, Đinh Công Tráng, người quê Nham Tràng, Thanh Liêm; Lê Hữu Cầu, Nhật Tân, Kim Bảng; Đinh Văn Nghiêm (Đề Yêm), Đồng Hoá, Kim Bảng đã đứng lên kêu gọi văn thân, chiêu mộ nghĩa quân, dựng cờ đánh Pháp…Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhân dân Hà Nam luôn đoàn kết một lòng đi theo Đảng đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương. Ngay từ năm 1930, nông dân Hà Nam đã đứng lên đấu tranh bằng cuộc biểu tình, tuần hành ngày 20/10/1930 tại Bồ Đề (Bình Lục), mở đầu cho các cuộc nổi dậy của nông dân trong tỉnh. Hà Nam tự hào có Nguyễn Hữu Tiến, người vẽ lá cờ Tổ quốc, đã bị địch bắt và bị xử bắn ngày 28-8-1941 cùng các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa là Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Vǎn Tần, Hà Huy Tập... Trong trường kỳ chống Pháp, nhân dân Hà Nam vừa chiến đấu, vừa tích cực tăng gia sản xuất, không những xây dựng nền kinh tế tự cấp, tự túc để nuôi quân dân kháng chiến lâu dài mà còn đóng góp hàng ngàn tấn lương thực để nuôi quân trên các chiến trường, tiễn đưa hàng vạn con em lên đường nhập ngũ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân Hà Nam với tinh thần vì miền Nam ruột thịt, nghe theo tiếng gọi của Đảng, lớp lớp thế hệ thanh niên Hà Nam đã tình nguyện lên đường vào Nam chiến đấu. Hà Nam luôn là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến, đảm bảo “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, nhiều người con của quê hương đã anh dũng hy sinh như: ; 9 cô gái Phù Vân; 12 cô gái Lam Hạ ...
Cùng với bề dầy truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, Hà Nam còn là mảnh đất có truyền thống hiếu học. Kể từ khoa thi đầu tiên (1075) đến khoa thi cuối cùng (1919) toàn tỉnh đã có 53 người đỗ đạt ở 36 khoa thi. Người đỗ cao nhất là Nguyễn Quốc Hiệu (Phú Thứ, Duy Tiên) đạt học vị Thám hoa, người đỗ khoa bảng trẻ nhất là Phan Tế (Duy Tiên) đỗ học vị Tiến sỹ khi mới 19 tuổi, người đỗ ở tuổi cao nhất là Trương Minh Lượng (Duy Tiên) đỗ Tiến sỹ năm 65 tuổi, người đỗ đầu 3 kỳ thi là Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến…Truyền thống hiếu học và tài năng của nhân dân Hà Nam tiếp tục được giữ gìn, phát huy cao độ từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Hà Nam tự hào có Phạm Tất Đắc với tập “Chiêu hồn nước” bất hủ; Nguyễn Thượng Cát với bản lược dịch “Tư bản luận”; Nam Cao - Nhà văn liệt sỹ, người đầu tiên được giải thưởng Hồ Chí Minh vì những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp văn học nước nhà. Hà Nam tự hào với tiếng trống Bắc Lý, nơi khởi nguồn của phong trào “Dậy tốt, Học tốt”.
Phát huy truyền thống lịch của cha ông, trong những năm qua, Đảng bộ, quân và dân Hà Nam tích cực thi đua lao động sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Đảng bộ quân và dân Hà Nam luôn thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, đóng góp vào thành công của hai cuộc kháng chiến và trong thời kỳ đổi mới thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với những đóng góp đó, Đảng bộ quân và dân Hà Nam cùng 6/6 huyện, thành phố vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác. Năm 2008 này, thị xã Phủ Lý vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động Hạng ba của Nhà nước trao tặng, được Chính phủ công nhận là thành phố trực thuộc tỉnh.
Sau hơn 10 năm tái lập tỉnh, Đảng bộ, quân và dân Hà Nam luôn đoàn kết một lòng, nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. Từ sau khi tái lập tỉnh năm 1997 đến nay, kinh tế - xã hội Hà Nam đã có những bước tiến vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu quan trọng với tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 9%. Kinh tế - xã hội Hà Nam đang khởi sắc, cơ chế chính sách đầu tư khá hấp dẫn, sẵn sàng mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong 9 tháng đầu năm 2008, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) ước đạt 2.889,2 tỷ đồng, tăng 14,34% so với 9 tháng năm 2007; Sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tiếp tục phát triển, giá trị sản xuất năm 2008 ước thực hiện 1.767 tỷ đồng, tăng 4,3% so với năm 2007, đạt 100,02% Kế hoạch năm; Giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh 9 tháng ước thực hiện 3.805 tỷ đồng, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm 2007, đạt 74,2% Kế hoạch năm; Ước tính giá trị xuất khẩu 9 tháng năm 2008 đạt 96.565,5 ngàn USD, bằng 96,6% Kế hoạch năm, tăng 38,3% so cùng kỳ năm trước. Tỉnh đã giải quyết việc làm cho khoảng 9.500 nghìn người, đạt 70,4% kế hoạch năm; Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh dự tính đến hết tháng 9 còn 9,1%, giảm 1,54% so với năm 2007… Đến nay, Hà Nam đã có 05 khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung. Thời gian tới, tỉnh sẽ tập trung làm tốt công tác quy hoạch các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ, phấn đấu đưa Hà Nam trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020, là đô thị loại I sau năm 2025.
Trên cơ sở những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, tiềm năng và triển vọng, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh sẽ tập trung mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo bước đột phá trong phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa công nghệ mới vào sản xuất và đời sống, không ngừng chăm lo đời sống tinh thần cho nhân dân. Qua đó góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XVII đề ra, xây dựng tỉnh Hà Nam sớm trở thành một tỉnh giầu về kinh tế, vững mạnh về an ninh quốc phòng, có lối sống văn minh, cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X./.
Tỉnh Hà Nam nằm ở vị trí cửa ngõ phía Nam, cách Thủ đô Hà Nội 56 km trên tuyến đường giao thông xuyên Bắc Nam. Phía Bắc giáp tỉnh Hà Tây, phía Ðông giáp tỉnh Hưng Yên, Thái Bình, phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình, phía Nam giáp tỉnh Ninh Bình. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 1.542 km2, chiếm 0,47% tổng diện tích tự nhiên cả nước. Các đường giao thông quan trọng như đường quốc lộ 1A, đường sắt Bắc- Nam, đường 21A, 21B, đường 62, đường 60. Hệ thống sông ngòi chính chảy trên địa bàn gồm: sông Hồng, sông Ðáy, sông Châu thuận tiện cho giao thông thủy.
Ðịa hình
Do là vùng tiếp giáp giữa vùng Ðồng bằng sông Hồng và dải đá trầm tích ở phía Tây nên Hà Nam có địa hình đa dạng, vừa có đồng bằng, vừa có vùng bán sơn địa và vùng trũng. Vùng đồi núi chiếm 25,7% diện tích toàn tỉnh, vùng đồng bằng chiếm 74,3% diện tích.
Khí hậu:
Mang khí hậu nhiệt đới, gió mùa. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23 0C; nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là tháng 1, khoảng 15,1 0C; cao nhất là tháng 6, khoảng 29 0C. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.700 -2.200 mm, song lượng mưa phân bố không đều, tập trung tới khoảng 70% lượng mưa cả năm vào mùa hạ (từ tháng 5 đến tháng 10). Mùa khô, kéo dài từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, ít mưa, lạnh, có gió Bắc hanh khô.
Dân số - Dân tộc: Theo kết quả điều tra ngày 1/4/1999, tỉnh Hà Nam có 793.103 người. Trong đó, số người trong độ tuổi lao động xã hội trong toàn tỉnh là 547.844 người, chiếm 69% dân số. Trên địa bàn tỉnh có 27 dân tộc, đông nhất là dân tộc Kinh có 792.130 người, chiếm 99%; các dân tộc thiểu số như dân tộc Tày có 285 người, chiếm 0,03%; dân tộc Ngái có 136 người, chiếm 0,01%; dân tộc Thái có 115 người, chiếm 0,01%; các dân tộc khác chiếm 0,05%
Trình độ dân trí: Tính đến hết năm 2002 đã phổ cập giáo dục tiểu học cho 6 huyện, thị xã với số xã là 116 xã phường, trong đó số xã miền núi có 15 xã chiếm 12,7%; tỷ lệ người biết chữ chiếm 96%. Số học sinh phổ thông năm học 2002-2003 là 76.024 em; số giáo viên toàn tỉnh là 3.253 người chủ yếu là dân tộc kinh. Số thầy thuốc có 1.723 người; bình quân y, bác sĩ trên 1 vạn dân là 4,4 người trong đó y, bác sĩ là người dân tộc thiểu số chiếm 0,12%.
Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên đất . Tỉnh Hà Nam có 154.200 ha diện tích đất tự nhiên. Trong đó diện tích đất nông nghiệp là 94.062 ha, chiếm 61%; diện tích đất lâm nghiệp có rừng là 9.466 ha, chiếm 6,14%; diện tích đất chuyên dùng là 21.079 ha, chiếm 13,67%; diện tích đất ở là 4.282 ha, chiếm 5,04% và diện tích đất chưa sử dụng và sông suối đá là 7.790 ha, chiếm 9,1 %. Trong diện tích đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng năm là 44.074 ha, chiếm 85,03%, riêng đất lúa chiếm 91% có thể gieo trồng 2 vụ; diện tích đất trồng cây lâu năm là 146 ha, chiếm 0,28%; diện tích đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 4.508 ha, chiếm 8,69%. Diện tích đất trống, đồi
trọc cần phủ xanh là 1.334 ha, đất có mặt nước chưa sử dụng 2.328 ha, đất chưa sử dụng khác 413,19 ha
Tài nguyên rừng. Ðến năm 2002, toàn tỉnh có 9.466 ha, trong đó: Rừng tự nhiên là 7.753 ha, rừng trồng là 1.713 ha.
Tài nguyên khoáng sản. Hà Nam là tỉnh có nguồn tài nguyên phong phú, nhiều chủng loại, được phân bố tập trung ở phía Tây sông Ðáy thuộc hai huyện Thanh Liêm, Kim Bảng. Ðặc biệt là nguồn đá vôi là nguyên liệu cho công nghiệp xi măng, bột nhẹ . Ðá vôi trữ lượng điều tra bước đầu khoảng 7,4 tỷ m3, chất lượng khá tốt, có đủ điều kiện để sản xuất xi măng mác cao. Ngoài ra còn có một số đá vân hồng, đá đen, đá trắng là nguyên liệu cho trang trí nội thất nhưng qui mô nhỏ thuộc hai huyện Kim Bảng, Thanh Liêm . Than bùn tập trung tại khu vực Tam Chúc- Ba Sao làm nguyên liệu chủ yếu để sản xuất phân vi sinh, tổng trữ lượng khoảng 172 nghìn m3. Sét cao lanh là phụ gia công nghiệp xi măng nội địa khoảng 38 triệu tấn, xét gạch ngói khoảng 20 triệu tấn, nguồn cát xây dựng ở ven sông Hồng.
Tài nguyên du lịch . Có nhiều di tích lịch sử như Núi Cấm, đền Trúc... Ngoài ra về tài nguyên du lịch tự nhiên của Hà Nam còn phải kể đến động Cô Ðôi, thiên cung đệ nhất động ở Ba Sao, Ao Tiên, đầm tiểu lục Nhạc, sông Ðáy, sông Châu, hòn Ngọc ở Ngọc Sơn ( Kim Bảng) núi Ðọi ở Ðọi Sơn ( Duy Tiên)... Ðặc biệt là con đường thủy từ Phủ Lý nối với khu di tích Chùa Hương đi theo sông Ðáy dài 36 km, là một đường cảnh quan rất hấp dẫn .
Mạng lưới giao thông đường bộ năm 2002 . Toàn tỉnh hiện có 5.000 km đường giao thông, trong đó đường quốc lộ dài gần 100 km. Ðường tỉnh lộ có 12 tuyến với tổng chiều dài 170 km, đường giao thông nông thôn ( từ huyện đến đưòng làng ngõ xóm và đường ra ruộng) với tổng chiều dài trên 4.000 km. Mặc dù mạng lưới giao thông đường bộ khá phát triển nhưng phần lớn
những trục chính đều hình thành từ những năm 1960. Ðến nay qua sử dụng lâu dài, nền đường rất yếu, không đáp ứng được yêu cầu vận tải lớn. Hiện đã có 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm.